Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ Ban hành thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết, xét xử phúc thẩm

04:40 - Thứ Sáu, 15/07/2022

Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết, xét xử các vụ, việc dân sự theo trình tự phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nhận thấy cần thông báo rút kinh nghiệm về những thiếu sót, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án đối với 02 vụ, việc cụ thể như sau:

          1/Thông báo rút kinh nghiệm số 65/TB-VKS-P9 đối với vụ án: “Tranh chấp Chia di sản thừa kế” giữa nguyên đơn Hà Văn Châu và bị đơn Hà Công Chỉnh do Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê xét xử sơ thẩm.

           Về nội dung vụ án:

          Bố mẹ đẻ ông Hà Văn Châu là cụ Hà Văn Xiêm  (chết năm 1990) và cụ Nguyễn Thị Êm (chết năm 2000). Có 03 người con đẻ là ông Hà Văn Châu; Ông Hà Công Chỉnh; Ông Hà Văn Nga (chết năm 2002) và 01 người con nuôi là bà Hà Thị Xen (chết năm 2010). Khi còn sống cụ Xiêm và cụ Êm có quyền sử dụng hợp pháp 02 thửa đất thổ cư số 9, số 10, tờ bản đồ 16, tổng diện tích 1.670m2 tại khu 01 (nay là khu Cầu Tiến), xã Xương Thịnh, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Khi hai cụ chết, không để lại di chúc.

Ngày 22/12/2000, UBND huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSD đất) đứng tên chủ hộ sử dụng là bà Nguyễn Thị Loan (vợ ông Hà Công Chỉnh) đối với 02 thửa đất số 9 và thửa số10 nêu trên mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế.

Nay ông Hà Văn Châu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản do các cụ Xiêm, cụ Êm để lại là quyền sử dụng 02 thửa đất nêu trên.

Ông Chỉnh và bà Loan không nhất trí với yêu cầu chia thừa kế của ông Châu vì cho rằng hai thửa đất nêu trên, cụ Xiêm và cụ Êm đã có di chúc là "Tờ di sản" do cụ Xiêm viết ngày 10/9/1990, nội dung là để lại toàn bộ hai thửa đất nêu trên và các tài sản có trên đất cho vợ chồng ông làm tài sản riêng. Sau khi cụ Xiêm chết, đến ngày 17/10/1990, cụ Êm mới ký và lấy tờ di chúc đưa cho ông quản lý. Như vậy, các cụ đã giao hai thửa đất này cho vợ chồng ông quản lý từ năm 1980, ông bà đã sử dụng đất ổn định và có đóng thuế đầy đủ. Do đó, hai thửa đất nêu trên là của vợ chồng ông được bố mẹ cho hợp pháp và UBND huyện Cẩm Khê cấp Giấy CNQSDĐ cho ông bà là đúng.

Quá trình giải quyết của Tòa án

- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2022/DSST ngày 13/01/2022 của TAND huyện Cẩm Khê Căn cứ vào: Điều 4, Điều 10, khoản 1 Điều 12, Điều 13, Điều 14, khoản 1 Điều 23 của Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990; khoản 1 Điều 2, khoản 2 Điều 3 của Luật đất đai năm 1993 và khoản 3 Điều 690 của Bộ luật dân sự 1995; khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 và khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; điểm đ Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Hà Văn Châu, về việc chia thừa kế quyền sử dụng thửa đất số 9, tờ bản đồ số 16, diện tích 745m2 (400m2 đất ở, 345m2 đất trồng cây lâu năm) và thửa đất số 10, tờ bản đồ 16, diện tích 925m2 đất trồng cây lâu năm; đều có địa chỉ tại khu l (nay là khu Cầu Tiến), xã Xương Thịnh, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, đã được UBND huyện Sông Thao (nay là UBND huyện Cẩm Khê) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 427267 ngày 22/12/2000 đứng tên chủ hộ là Nguyễn Thị Loan.

Ngoài ra bản án còn tuyên án phí, chi phí tố tụng, tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

          Ngày 24/1/2022, ông Châu có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.       Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2022/DS-PT ngày 25/4/2022 của TAND tỉnh Phú Thọ quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 308 và khoản 1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự. Xử:

          Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2022/DS-ST ngày 13/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê  xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm đó là:

- Về thủ tục tố tụng: Trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ thể hiện: Giấy CNQSDĐ cấp cho hộ bà Nguyễn Thị  Loan, nhưng quá trình giải quyết vụ án, TA cấp sơ thẩm chưa đưa những người có cùng hộ khẩu với bà Loan tại thời điểm cấp Giấy CNQSDĐ tham gia tố tụng, như vậy là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

- Về  đánh giá chứng cứ:

Xét về nguồn gốc thửa đất: Các bên đương sự và chính quyền địa phương đều xác định hai thửa đất đang có tranh chấp, mà đương sự yêu cầu chia di sản thừa kế, đã được cấp Giấy CNQSDĐ mang tên hộ bà Nguyễn Thị Loan, có nguồn gốc của cụ Xiêm và cụ Êm (là bố mẹ đẻ của ông Châu và ông Chỉnh) tạo dựng nên.  Ông Châu cho rằng khi chết hai cụ không để lại di chúc. Ông Chỉnh, bà Loan xuất trình một bản di chúc của cụ Xiêm và cụ Êm, với nội dung để lại toàn bộ tài sản cho vợ chồng ông.

Xét về di chúc: Cụ Xiêm viết "Tờ di sản" ngày 10/9/1980, đến 24/7/1990 cụ Xiêm chết, tại thời điểm mở thừa kế, pháp lệnh thừa kế năm 1990 đang có hiệu lực pháp luật. Đối chiếu với quy định thì về hình thức và nội dung của " Tờ di sản" chưa phù hợp với Điều 13, Điều 14 của pháp lệnh năm 1990.

 Bên cạnh đó, khi kê khai, đo đạc làm thủ tục cấp giấy CNQSDĐ đối với hai thửa đất nêu trên không có ý kiến của các đồng thừa kế.

  Xét về hồ sơ cấp Giấy CNQSDĐ: Theo chính quyền địa phương cung cấp, khi có chủ trương kê khai để cấp Giấy CNQSDĐ (năm 1997, 1999, 2000). Khi đó đoàn đo đạc và xã thông báo cho người dân đến nhà văn hóa khu để kê khai, mỗi gia đình thống nhất cử một người đại diện đến để kê khai, thường là chủ sử dụng đất hoặc người được tặng cho quyền sử dụng đất, lúc đó ông Châu đã đi công tác, ông Chỉnh đang trong quân ngũ, tại thời điểm kê khai chỉ có vợ ông Chỉnh là bà Loan ở nhà cùng mẹ ông Chỉnh (bố ông Chỉnh đã chết) nên bà Loan đứng ra kê khai cấp Giấy CNQSDĐ đối với hai thửa đất nêu trên, nên đứng tên bà Loan.

Như vậy, hồ sơ cấp Giấy CNQSDĐ không thuộc trường hợp được tặng cho hay chuyển nhượng và như phân tích trên cũng không thuộc trường hợp được hưởng di sản theo di chúc.

 Từ những phân tích nêu trên thấy rằng tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét toàn diện, khách quan các tài liệu, chứng cứ dẫn đến xác định không còn di sản để chia là chưa đúng. Do Tòa án cấp sơ thẩm xác định không còn di sản thừa kế nên không tiến hành đo đạc thẩm định theo hướng chia di sản, vì vậy không có ranh giới, mốc giới cụ thể, cũng như kỷ phần của từng đồng thừa kế, nên Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở để sửa án.

Xét thấy, những vi phạm nêu trên của bản án sơ thẩm là nghiêm trọng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định hủy bản án sơ thẩm. Giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

2/ Thông báo rút kinh nghiệm số 66/TB-VKS-P9 đối với đối với việc: "Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” theo yêu cầu của ông Đỗ Tiến Dũng do Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn xét xử sơ thẩm.

          Về nội dung vụ án:

Năm 2019, chị Nguyễn Thị Hương và anh Phan Đình Khải ở khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn có đơn khởi kiện yêu cầu anh Chinh (Chất) trả cho anh chị số tiền đã vay là 280.000.000đ cùng lãi xuất theo quy định của pháp luật từ 11/2/2017 đến khi xét xử.

 Tại bản án sơ thẩm số 10/2019/DS-ST ngày 29/8/2019, TAND huyện Thanh Sơn quyết định: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hương, anh Khải. Buộc anh Chinh phải trả cho chị Hương, anh Khải số tiền cả gốc và lãi là 333.257.000đ.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Hương, anh Khải có đơn đề nghị thi hành Bản án nêu trên. Chi Cục THADS huyện Thanh Sơn ban hành quyết định THA theo yêu cầu của chị Hương, anh Khải đối với anh Chinh (Chất); Sau khi thụ lý, chấp hành viên là ông Đỗ Tiến Dũng đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của anh Chinh, thấy:

Anh Chinh và vợ là chị Nguyễn Thị Thu Thủy có 01 thửa đất số 230-6, tờ bản đồ số 21, diện tích  đất thổ cư 71,9m2, được UBND huyện Thanh Sơn đã được cấp giấy CNQSDĐ số AO 164330 ngày 09/9/2009 đứng tên ông Nguyễn Duy Chinh và bà Nguyễn Thị Thu Thủy. Năm 2011, anh chị có xây một ngôi nhà 3 tầng, diện tích 210m2 ở thửa đất nói trên; Ngày 16/8/2018, chị Thủy và anh Chinh đã thế chấp thửa đất và ngôi nhà nói trên cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn - chi nhánh huyện Thanh Sơn để vay số tiền 1.300.000.000đ;  Ngày 1/5/2019, anh Chinh và chị Thủy đã lập hợp đồng viết tay, chuyển nhượng thửa đất và toàn bộ tài sản trên thửa đất số 260-6 cho chị Nguyễn Thị Hằng (em gái chị Thủy).

Ngày 23/5/2019 anh Chinh và chị Thủy đã tất toán khoản vay 1.300.000đ cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - chi nhánh huyện Thanh Sơn và cùng ngày 23/5/2018, tại văn phòng công chứng Thúy Ngữ - xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông, anh Chinh, chị Thủy và chị Hằng đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 260-6 (không có nhà) và có biên bản bàn giao nhà, đất (có bà Đinh Thị Nghị và bà Nguyễn Thị Hiền chứng kiến).

Sau khi xác minh điều kiện thi hành án của anh Chinh như nêu trên, Chấp hành viên đã thông báo cho bà Hương và ông Khải có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất (viết tay)  lập ngày 1/5/2019 giữa vợ chồng anh Chinh, chị Thủy với chị Hằng vô hiệu. Hết thời gian thông báo nhưng bà Hương và ông Khải không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ khoản 2 Điều 75 Luật thi hành án dân sự năm 2008, Chấp hành viên Chi cục thi hành án huyện Thanh Sơn đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất (viết tay) lập ngày 1/5/2019 giữa vợ chồng ông Nguyễn Duy Chinh và bà Nguyễn Thị Thu Thủy với bà Nguyễn Thị Hằng vô hiệu.

          Quá trình giải quyết của Tòa án

- Tại Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 02/2022/DS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn áp dụng khoản 2 Điều 117, Điều 122, Điều 407 của Bộ luật Dân sự; Điều 371; Điều 372 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 11 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

 Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất (viết tay) lập ngày 1/5/2019 giữa vợ chồng ông Nguyễn Duy Chinh và bà Nguyễn Thị Thu Thủy với bà Nguyễn Thị Hằng vô hiệu.

 Ngoài ra, bản án còn quyết định về lệ phí sơ thẩm, quyền kháng cáo của đương sự và quyền kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp.

          Ngày 28/1/2022, chị Thủy, anh Chinh và chị Hằng có đơn kháng cáo toàn bộ quyết định sơ thẩm nêu trên. Đề nghị TA cấp phúc thẩm tuyên hủy Quyết định giải quyết việc dân sự sơ thẩm của TAND huyện Thanh Sơn. 

          Vấn đề cần rút kinh nghiệm đó là:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm phân biệt sai về giải quyết giữa vụ án dân sự và việc dân sự, thể hiện:

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì việc dân sự được hiểu là việc cá nhân, cơ quan tổ chức, không có tranh chấp nhưng có yêu cầu tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó; Còn vụ án dân sự là tranh chấp xảy ra giữa các bên đương sự.

Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ thì Chấp hành viên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, nhưng người liên quan là ông Chinh, bà Thủy, bà Hằng không đồng ý với yêu cầu của chấp hành viên, do đó cần xác định giữa các bên đương sự đang có sự có sự tranh chấp về việc giải quyết nội dung. Nhưng tòa án cấp sơ thẩm lại thụ lý việc dân sự. Từ đó dẫn đến trình tự thủ tục giải quyết vụ việc không đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

          - Về  nội dung: Chấp hành viên căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất (viết tay) lập ngày 1/5/2019 giữa vợ chồng ông Nguyễn Duy Chinh và bà Nguyễn Thị Thu Thủy với bà Nguyễn Thị Hằng vô hiệu.

          Nhưng xét thấy, Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự năm 2014 thì phạm vi áp dụng là các bản án, quyết định...đã có hiệu lưc pháp luật, trong khi đó vợ chồng anh Nguyễn Duy Chinh và chị Nguyễn Thị Thu Thủy với chị Nguyễn Thị Hằng lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất (viết tay) ngày 1/5/2019 và chị Hằng đã được cấp giấy CNQSDĐ ngày 30/5/2019, nhưng đến ngày 29/8/2019 thì mới có Bản án sơ thẩm số 10/2019/DS-ST ngày 29/8/2019 của TAND huyện Thanh Sơn quyết định buộc anh Chinh phải trả cho chị Hương, anh Khải số tiền cả gốc và lãi là 333.257.000đ.

 Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 thì trong trường hợp giao dịch dân sự nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, bị Tòa án tuyên là vô hiệu sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý và tòa án phải giải quyết hậu quả pháp lý đó. Nhưng trong quyết định giải quyết việc dân sự số 02 của TAND huyện Thanh Sơn chưa giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

Xét thấy, những vi phạm nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm là nghiêm trọng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định hủy quyết định giải quyết sơ thẩm. Giao hồ sơ cho Tòa án huyện Thanh Sơn giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

 

                                                     Nguồn: Phòng 9