Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 "Điều 44a".

10:30 - Thứ Sáu, 24/06/2016

Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 "Điều 44a".

Luật thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009, gồm 9 Chương, 183 Điều. Sau 5 năm triển khai thực hiện, những qui định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã có tác động tích cực và hiệu quả đến đời sống kinh tế, xã hội, góp phần quan trọng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Luật thi hành án dân sự 2008 (Luật 2008) đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng, cơ bản đảm bảo cho hoạt động của Cơ quan Thi hành án dân sự các cấp có hiệu quả hơn; từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Luật thi hành án dân sự 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, vẫn còn có sự chồng chéo giữa các Luật có liên quan dẫn tới những khó khăn, vướng mắc khó giải quyết, đây là một trong những nguyên nhân làm cho lượng án tồn đọng kéo dài và có chiều hướng tăng tại cơ quan Thi hành án dân sự các cấp.
             Nhằm tiếp tục thể chế chính sách xã hội hóa trong công tác thi hành án dân sự theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, trong đó định hướng hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự. Đồng thời, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 616 NQ-UBTV/QH13 ngày 09/7/2013 về việc tổng kết 04 năm thực hiện Luật thi hành án dân sự và rà soát các qui định của pháp luật hiện hành, trên cơ sở đó xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2008, nhằm đáp ứng kịp thời chuyển biến của quá trình phát triển kinh tế, xã hội và điều chỉnh những điểm chưa phù hợp, thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành.
             Do đó, trên cơ sở thực tiễn tổng kết, ngày 25/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Luật Thi hành án dân sự sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 01//7/2015 để phần nào khắc phục những hạn chế, tồn tại trên thực tiễn. Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung 48 Điều; bãi bỏ 06 Điều, gồm: Điều 32, 33, 34, 51, 138 và 139; bỏ điểm b khoản 1 Điều 163, khoản 3 và khoản 4 Điều 179 của Luật thi hành án dân sự năm 2008. Trong lần sửa đổi, bổ sung này, có 03 Điều bổ sung mới hoàn toàn là Điều 7a, Điều 7b và Điều 44a: “xác định việc chưa có điều kiện thi hành án”.
              Trước đây, theo Điều 51 Luật Thi hành án dân sự 2008 nếu rơi vào một trong 04 trường hợp sau thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án:
                 a. Không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án;
                 b. Không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
                 c. Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án;
                d. …Thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà được sự không có thỏa thuận khác”.
              Điều này dẫn đến hậu quả là việc trả đơn yêu cầu thi hành án có thể bị áp dụng tùy tiện, làm cho quyền lợi của người được thi hành án có thể bị xâm hại. Do đó, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi đã bỏ hoàn toàn điều này. Thay vào đó, một số căn cứ của Điều 51 Luật Thi hành án dân sự 2008 được chuyển thành việc chưa có điều kiện theo Điều 44a Luật Thi hành án dân sự sửa đổi (Điều 44a). Theo đó, căn cứ kết quả xác minh điều kiện thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành khi thuộc một trong các trường hợp sau:
              a. Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án;
             b. Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác;
               c. Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng.”
            Tuy nhiên, tác giả có một số băn khoăn nếu áp dụng một số điểm của khoản 1 Điều 44a Luật Thi hành án sửa đổi trong thực tế. Cụ thể:
           Thứ nhất, tại điểm c khoản 1 Điều 44 a quy định: Trong trường hợp “chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án” thì Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự sẽ ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành và quyết định này sẽ được đăng tải công khai trên website của cơ quan thi hành án. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân theo dõi quá trình tiến hành thủ tục thi hành án của cơ quan thi hành án.
Tuy nhiên, tại điểm b khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án sửa đổi, một trong những căn cứ để hoãn thi hành án cũng có liên quan đến việc “chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án”. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự sẽ ra quyết định hoãn thi hành án nếu “chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án”.
            Như vậy, chỉ với một căn cứ pháp lý “chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án” nhưng lại áp dụng cho 02 thủ tục xử lý của cơ quan thi hành án. Điều này sẽ dễ dẫn đến một số bất cập sau:
             Một là, việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan thi hành án không thống nhất và có thể sẽ dẫn đến sự tùy tiện. Bởi, “hoãn” và “chưa có điều kiện” là 02 phạm trù khác nhau. Chúng khác nhau về khái niệm và thủ tục pháp lý. Nếu được áp dụng trường hợp “hoãn”, thì cả người thi hành án và được thi hành án đều chủ động được về thời gian do luật quy định phải có thời hạn xác định. Nhưng nếu đặt ngược lại, làm sao biết khi nào sẽ xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án để ấn định thời gian hoãn. Do đó, “chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án” dùng làm căn cứ để hoãn thi hành án cũng chưa phù hợp. Trong khi đó, nếu xác định là “chưa có điều kiện” có nghĩa tạm thời ở thời điểm này chưa thể tiến hành thi hành án được, khi nào người bị thi hành án có điều kiện thì cơ quan thi hành án mới tiến hành các thủ tục để thi hành án. Nhưng thời hạn bao lâu thì luật không rõ. Điều này, vô tình có thể làm quyền lợi của người được thi hành án bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, nếu xét trong căn cứ về chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án thì việc áp dụng cho Điều 44a sẽ hợp lý hơn. Vì như đã phân tích, “chưa có điều kiện” không bị ràng buộc về thời gian. Do đó, căn cứ này nên được áp dụng thống nhất là thuộc căn cứ của Điều 44a hợp lý hơn là Điều 48.
             Hai là, việc phân loại án giữa các cơ quan thi hành án không thống nhất và có thể sẽ dẫn đến việc “lách luật” để chạy theo thành tích, chỉ tiêu. Bởi, theo biểu số 6 của mẫu thống kê về công tác thi hành án ban hành kèm theo Thông tư số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015, khi phân loại án, trường hợp“hoãn thi hành án” được xếp vào mục án có điều kiện thi hành. Như vậy, trong trường hợp nếu bị áp lực về chỉ tiêu thì đây là chổ hợp lý để các cơ quan thi hành án giảm số việc có điều kiện xuống và tăng số việc chưa có điều kiện, để tăng tỷ lệ việc thi hành án trên số có điều kiện thi hành.
             Tại khoản 3 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự đã nêu: “Trường hợp chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án. Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án phải ghi rõ việc thi hành án bị hoãn theo điểm b khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự”. Quy định này nhằm khắc phục một phần bất cập đã nêu, tạo sự thống nhất trong quá trình thực hiện công tác thống kê cho địa phương.
               Nhưng về lâu dài và xét trên phương diện pháp lý thì quy định tại điểm c khoản 1 Điều 44a cũng cần phải nghiên cứu, xem xét lại.
               Thứ hai, tại điểm b khoản 2 Điều 44a quy định chưa thi hành án liên quan đến việc vật đặc định không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được.
Điều 179 Bộ Luật dân sự quy định:
"….2.Vật đặc định là vật phân biệt được với vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định thì phải giao đúng vật đó…."
              Như vậy, khi đã xác định đó là vật đặc định có nghĩa là loại không thể dùng vật khác để thay thế. Do đó, khi chuyển giao vật đặc định, người có nghĩa vụ phải chuyển giao đúng vật đặc định đó cho người có quyền như đã thỏa thuận.
               Đối chiếu lại với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 44a cho thấy, việc quy định này theo hướng ra quyết định “chưa có điều kiện thi hành” nếu rơi vào căn cứ này là nhằm bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án. Tuy nhiên, một khi vật đặc định đã xác định là không còn nhưng cơ quan thi hành án vẫn cứ phải ra quyết định “chưa có điều kiện thi hành” dù biết rằng đây là vấn đề sẽ không có thời hạn kết thúc và thực chất người được thi hành án cũng có thể sẽ không bao giờ được thi hành quyền này, thì quy định như vậy không còn ý nghĩa nữa mà trái lại cơ quan thi hành án vẫn phải mang việc tồn từ năm này qua năm khác, không có thời hạn kết thúc. Do đó, thiết nghĩ bên cạnh việc đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án và tạo thuận lợi hơn trong quá trình hoạt động của các cơ quan thi hành án thì cơ quan quản lý cấp trên nên nghiên cứu và có sự hướng dẫn xử lý đối với trường hợp như đã nêu.


Phạm Thành Trung – Trưởng Phòng 11, VKS tỉnh Phú Thọ